Bài số 51

Thơ Fujiwara no Sanekata Ason 藤原実方朝臣

 

a) Nguyên văn:

かくとだに

えやはいぶきの

さしも草

さし知らじな

燃ゆる思ひを

b) Phiên âm:

Kakutodani

E yaha ibuki no

Sashi mogusa

Sashimo shiraji na

Moyuru omoi wo

c) Diễn ý:

Muốn tỏ cùng nàng tôi nhớ nhung đến mức nào,

Nhưng không sao nói nên lời.

Không như lá ngãi cứu trên núi Ibuki cháy mãi không hết,

Nhưng nàng đâu biết tình tôi đang bừng bừng.

 

d) Dịch thơ:

Thương nhớ mà nghẹn lời,
Có biết cho tình tôi?
Ngãi núi không đốt rụi,
Cũng bùng cháy vì người.

(ngũ ngôn) 

Nhớ thương mà tỏ không cùng,
Không thiêu hết cỏ cũng bùng lửa yêu.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Go-Shuui-shuu (Hậu Thập Di Tập), thơ luyến ái phần 1, bài 612.

Tác giả: Fujiwara no Sanekata Ason (Đằng Nguyên, Thực Phương Triều Thần,  ? - 998) là một nhân vật có cuộc sống bay bướm trong chốn cung đình. Từng xuất hiện trong Ghi Nhanh Bên Gối (Makura no Sôshi) của Sei Shônagon. Tuy là người tài hoa nhưng suy nghĩ nông cạn nên có lần gây chuyện náo loạn trong cung, vô lễ với nhà thư đạo Kôzei. Sau ra trấn thủ vùng Mutsu rồi mất ở đó.

Lời thuyết minh của tập Go-Shuui-shuu cho biết đây là bài thơ đầu tiên một người đàn ông gửi đến người đàn bà để tỏ tình.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài Tình yêu nung nấu như ngọn lửa trong lòng.

Ngọn núi Ibuki (Y Xuy) nằm ở biên giới hai vùng Gifu và Ômi, không xa Kyôto là mấy. Có sách lại cho rằng nếu nổi tiếng về ngải cứu thì đó phải là núi Ibuki ở Tochigi (gần Tôkyô).Lá ngải cứu hay sashimo (tức sashimo-gusa, thông thường gọi là yomogi) ở đó nổi tiếng là nhiều. Ngải cứu trong thơ tượng trưng cho mùa xuân là loại lá có hương thơm, màu xanh để nhuộm bánh, khi để khô đốt lên châm cứu chữa được nhiều bệnh (nhưng không biết có chữa được tâm bệnh của người trong cuộc không?).Tên văn chương gọi là cỏ bồng (bồng hao).Tác giả như muốn nói lửa tình đang bùng lên của mình cũng cháy hoài không tắt. Giọng văn rất mạnh mẽ, không e ngại.

Trong bài này, tác giả sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau. Trước hết là kake-kotoba (chữ đa nghĩa) vì Ibuki (tên núi) và iu (nói ra) rất gần gủi về âm thanh. Chữ sashimo trong sashimogusa (ngãi cứu) của câu 3 và sashimo (một phó từ có nghĩa là “đến thế”) của câu 4 được láy đi láy lại theo kỹ thuật jo-kotoba (chữ mào đầu). Đó cũng là trường hợp của hi trong omohi (omoi) là nhớ và hi là lửa. Ngoài ra sashimogusa (ngãi cứu), moyuru (cháy), hi (lửa) lại là những engo (chữ liên hệ).

Để ý thêm là tác giả ngắt câu ở cuối câu thứ tư và dùng cả phép nghịch đảo.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Như Thử Hoài Quân.
如 此 懐 君

 

Như thử hoài quân chí ý nùng,
如 此 懐 君 至 意 濃

Y Xuy Sơn thượng ngải tùng tùng.
伊 吹 山 上 艾 叢 叢

Ngã tình như ngải nhiên bất diệt,
我 情 如 艾 燃 不 滅

Vấn quân nan đạo bất thức tình.
問 君 難 道 不 識 情

Anh dịch:

To tell thee of my love were vain,

Its depth to me is scarcely known:

As writhes the flesh ‘neath Moxa’s pain,

The Moxa on Ibuki grown,

So madly writhes my spirit’mong

Love’s flames, ere now unknown, sore wrung.

(Dickins)

That, 'tis as it is,

How can I make known to her?

So, she may n'er know

That the love I feel for her

Like Ibuki's moxa burns.

(Mac Cauley)

Theo sách Sanekata Ason-shuu (Thực Phương Triều Thần Tập), tác giả có rất nhiều người yêu, không dưới 20 bà, trong số đó có cả nữ sĩ tài hoa Sei Shônagon, tác giả Makura no Sôshi (Ghi Nhanh Bên Gối) và cũng là người sáng tác bài số 62 trong Hyakunin-isshu.

 

 





Bài số 51

Thơ Fujiwara no Sanekata Ason 藤原実方朝臣

 

a) Nguyên văn:

かくとだに

えやはいぶきの

さしも草

さし知らじな

燃ゆる思ひを

b) Phiên âm:

Kakutodani

E yaha ibuki no

Sashi mogusa

Sashimo shiraji na

Moyuru omoi wo

c) Diễn ý:

Muốn tỏ cùng nàng tôi nhớ nhung đến mức nào,

Nhưng không sao nói nên lời.

Không như lá ngãi cứu trên núi Ibuki cháy mãi không hết,

Nhưng nàng đâu biết tình tôi đang bừng bừng.

 

d) Dịch thơ:

Thương nhớ mà nghẹn lời,
Có biết cho tình tôi?
Ngãi núi không đốt rụi,
Cũng bùng cháy vì người.

(ngũ ngôn) 

Nhớ thương mà tỏ không cùng,
Không thiêu hết cỏ cũng bùng lửa yêu.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Go-Shuui-shuu (Hậu Thập Di Tập), thơ luyến ái phần 1, bài 612.

Tác giả: Fujiwara no Sanekata Ason (Đằng Nguyên, Thực Phương Triều Thần,  ? - 998) là một nhân vật có cuộc sống bay bướm trong chốn cung đình. Từng xuất hiện trong Ghi Nhanh Bên Gối (Makura no Sôshi) của Sei Shônagon. Tuy là người tài hoa nhưng suy nghĩ nông cạn nên có lần gây chuyện náo loạn trong cung, vô lễ với nhà thư đạo Kôzei. Sau ra trấn thủ vùng Mutsu rồi mất ở đó.

Lời thuyết minh của tập Go-Shuui-shuu cho biết đây là bài thơ đầu tiên một người đàn ông gửi đến người đàn bà để tỏ tình.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài Tình yêu nung nấu như ngọn lửa trong lòng.

Ngọn núi Ibuki (Y Xuy) nằm ở biên giới hai vùng Gifu và Ômi, không xa Kyôto là mấy. Có sách lại cho rằng nếu nổi tiếng về ngải cứu thì đó phải là núi Ibuki ở Tochigi (gần Tôkyô).Lá ngải cứu hay sashimo (tức sashimo-gusa, thông thường gọi là yomogi) ở đó nổi tiếng là nhiều. Ngải cứu trong thơ tượng trưng cho mùa xuân là loại lá có hương thơm, màu xanh để nhuộm bánh, khi để khô đốt lên châm cứu chữa được nhiều bệnh (nhưng không biết có chữa được tâm bệnh của người trong cuộc không?).Tên văn chương gọi là cỏ bồng (bồng hao).Tác giả như muốn nói lửa tình đang bùng lên của mình cũng cháy hoài không tắt. Giọng văn rất mạnh mẽ, không e ngại.

Trong bài này, tác giả sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau. Trước hết là kake-kotoba (chữ đa nghĩa) vì Ibuki (tên núi) và iu (nói ra) rất gần gủi về âm thanh. Chữ sashimo trong sashimogusa (ngãi cứu) của câu 3 và sashimo (một phó từ có nghĩa là “đến thế”) của câu 4 được láy đi láy lại theo kỹ thuật jo-kotoba (chữ mào đầu). Đó cũng là trường hợp của hi trong omohi (omoi) là nhớ và hi là lửa. Ngoài ra sashimogusa (ngãi cứu), moyuru (cháy), hi (lửa) lại là những engo (chữ liên hệ).

Để ý thêm là tác giả ngắt câu ở cuối câu thứ tư và dùng cả phép nghịch đảo.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Như Thử Hoài Quân.
如 此 懐 君

 

Như thử hoài quân chí ý nùng,
如 此 懐 君 至 意 濃

Y Xuy Sơn thượng ngải tùng tùng.
伊 吹 山 上 艾 叢 叢

Ngã tình như ngải nhiên bất diệt,
我 情 如 艾 燃 不 滅

Vấn quân nan đạo bất thức tình.
問 君 難 道 不 識 情

Anh dịch:

To tell thee of my love were vain,

Its depth to me is scarcely known:

As writhes the flesh ‘neath Moxa’s pain,

The Moxa on Ibuki grown,

So madly writhes my spirit’mong

Love’s flames, ere now unknown, sore wrung.

(Dickins)

That, 'tis as it is,

How can I make known to her?

So, she may n'er know

That the love I feel for her

Like Ibuki's moxa burns.

(Mac Cauley)

Theo sách Sanekata Ason-shuu (Thực Phương Triều Thần Tập), tác giả có rất nhiều người yêu, không dưới 20 bà, trong số đó có cả nữ sĩ tài hoa Sei Shônagon, tác giả Makura no Sôshi (Ghi Nhanh Bên Gối) và cũng là người sáng tác bài số 62 trong Hyakunin-isshu.